Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

LÀM MỐI TRĂNG



Mến tặng bạn ĐHM-lấy cảm hứng theo bài thơ "Cuội nhỏ và Trăng"

Em bay nửa vòng Trái Đất
Về Thăng Long Thành ngồi khỏa nước Hồ Tây
Mượn Lược Gió chải Tóc cho Mây
Trang trí cung Trăng 
và làm đẹp cho chị Hằng
Điểm danh các chú Cuội xếp hàng bê tráp hoa
Binh boong...binh boong...
Tiếng chuông Chùa ngân nga
Binh boong...binh boong...binh boong...
Đàn Sâm Cầm từ mùa xưa bay về hối hả
Cùng em rước Thơ lên đặt ở đài Sen
Binh boong... binh boong...binh boong...
Rằm tháng Giêng
Trăng và Thơ động phòng 
Em mỉm cười mà lệ dâng đầy khóe mắt
Lại mải miết bay nửa vòng Trái đất
Tiếp những Tháng Ngày chuyên cần nhặt hạt
để mùa sau...!

Lauingen,30.01.2013

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

VÀI NÉT VỀ CỤ HỒ VÀ "CỤ" DIỆM - Tiếp

Vài Nét Về “Cụ Diệm”
Trần Chung Ngọc


anh của Cụ Diệm: Giám Mục Ngô Đình Thục
"...Với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi (Ngô Đình Khả) cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp...." ( GIÁM MỤC NGÔ ĐÌNH THỤC)

Phần I
ã viết về Cụ Hồ mà lại không viết về “Cụ Diệm” thì quả là một điều thiếu sót, vì dù sao ông Diệm cũng đã là Tổng Thống của miền Nam trong 9 năm . Nhưng bài này tuyệt đối không phải để đối chiếu so sánh “Cụ Diệm” với  Cụ Hồ vì không ai có đôi chút hiểu biết lại đi làm công việc vô trí này. Tại sao? Vì một đằng suốt đời sống gian khổ, tổ chức, tập họp những người yêu nước chống Pháp, mong giành lại độc lập và thống nhất cho đất nước [Cụ Hồ], một đằng làm quan cho Pháp, bắt người yêu nước chống Pháp tra khảo, rồi nằm yên vị trong các Trường Dòng Công Giáo ở Mỹ, Bỉ trong khi nước nhà sôi bỏng vì chiến tranh, kháng chiến chống Pháp trở lại Đông Dương, rồi phút cuối trở về làm “chí sĩ cứu tinh dân tộc” [Cụ Diệm]. Đã có nhiều sách viết về biến cố ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh ở miền Nam. Và không ai có thể phủ nhận là chính cựu Hoàng Bảo Đại đã bổ nhiệm ông Diệm về làm Thủ Tướng. Nhưng những chi tiết từ đâu mà cựu Hoàng Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm thay vì không phải ai khác thì rất ít được viết đến. Có chăng chỉ là sơ sài như ông Diệm được Hồng Y Spellman ủng hộ hay được chính giới Mỹ ủng hộ, tuy rằng dân Việt không có ủng hộ, vì khi đó chẳng có mấy người biết đến ông Diệm . 
Chúng ta biết rằng Ông Ngô Đình Diệm không phải là một khuôn mặt chính trị có tầm vóc ở Việt Nam, được nhiều người biết đến trước khi được đưa về Việt Nam làm Thủ Tướng vào tháng 6, 1954. Thành tích của ông trong thời Pháp thuộc không lấy gì làm sáng sủa, chưa kể ông thuộc dòng họ ba đời làm Việt Gian. Thành tích “yêu nước” nổi bật nhất của ông là trong thời Pháp thuộc, khi làm Tri Phủ Hòa Đa, ông đã dùng đèn cầy đốt hậu môn của những người yêu nước chống Pháp để tra khảo. Chúng ta cũng biết, từ năm 1950, ông đã rời quê hương đất tổ của ông để sống trong các Trường Dòng Công Giáo ở Mỹ và ở Bỉ. Vì những thành tích này mà khi ông về cầm quyền, những người Công giáo đã tôn ông lên làm “chí sĩ”, và người dân miền đã Nam bị cưỡng bức phải ca bài “Toàn dân Việt Nam biết ơn Ngô Tổng Thống; Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm”. Cuối cùng, “muôn năm” chỉ có vỏn vẹn “chín năm”, và ông đã yên nghỉ cùng Chúa và ông bạn vàng Torquemada (một Đại Phán Quan Tây Ban Nha giống như ông Diệm đã từng tự nhận), tới nay được 43 năm rồi. 
Một câu hỏi được đặt ra: với một thành tích “yêu nước” và chính trị không có gì, với một khả năng rất giới hạn, tài và đức đều không có, vậy tại sao ông Diệm lại được chọn để làm Thủ Tướng ở miền Nam?
Có lẽ những chi tiết trong cuốn “The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman”, A Dell Book, NY, 1985, của John Cooney, tạm gọi là đầy đủ nhất. Để viết cuốn sách này, tác giả Cooney đã xử dụng những nguồn tài liệu từ chính Nhật Ký của Spellman, những hồ sơ mật của FBI, và qua những cuộc phỏng vấn, nên tác phẩm của Cooney là một nguồn tài liệu rất có giá trị [By using Spellman’s personal diary, FBI classified files, and interviews, Cooney’s volume is an engrossing, valuable document]. Vậy sau đây, tôi xin trích dẫn vài đoạn trong phần nói về ông Diệm trong cuốn sách trên, từ trang 307 đến trang 314.
“Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng Y Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ Tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi người lãnh đạo: Công Giáo nồng nhiệt và chống Cộng điên cuồng.
Spellman đã gặp Diệm ở New York vào năm 1950, khi người Việt Nam này ở trong Trường Dòng Marykoll ở Ossining, New York. Một tín đồ Công giáo trung thành, sinh ra từ một gia đình gia giáo, Diệm ở trong Trường Dòng do sự cầu xin của người Anh, Ngô Đình Thục, một Giám mục Công giáo. Là một người độc thân rất sùng tín, Diệm đã tự tách mình ra khỏi thế giới, đặc biệt là ra khỏi quốc gia tan tác bởi chiến tranh của ông ta. Và ông ta chỉ được biết đến bởi một nhóm nhỏ hoạt động chính trị ở Mỹ. Ở Việt Nam tên ông ta không gây nên một hứng thú nào. Trên chính trường Mỹ, ông ta không được ai biết đến, một tình trạng mà Spellman giúp ông sửa đổi. Lai lịch của Diệm không tránh được sự chú ý của Spellman.
Người đưa Diệm đến Spellman là Linh mục Fred McGuire. Một cựu thừa sai ở Á Châu, kiến thức về Viễn Đông của McGuire được biết rõ ở Bộ Ngoại Giao. McGuire nhớ lại, một ngày nọ ông được Dean Rusk, khi đó làm trưởng ban Á Châu vụ, nhờ dàn xếp để Giám mục Thục, sắp đến Mỹ, tới gặp các viên chức của Bộ Ngoại Giao. Rusk cũng tỏ ý muốn gặp Diệm.
McGuire tiếp xúc với người bạn lâu đời, Giám Mục Griffiths, vẩn còn là chuyên viên ngoại vụ của Spellman. Hắn ta yêu cầu sẽ để cho Thục được tiếp kiến đúng nghi thức bởi Hồng Y. Trong dịp này Diệm đã từ Trường Dòng đến nhà riêng của Spellman. Cuộc gặp gỡ giữa Spellman và Diệm có thể là một cuộc gặp gỡ lịch sử. Joseph Buttinger, một người hoạt động cho những người tị nạn Việt Nam, tin rằng Hồng Y Spellman là người Mỹ đầu tiên nghĩ đến việc đưa Diệm về lãnh đạo Nam Việt Nam.
Tháng 10 1950, hai anh em Diệm đã gặp các viên chức Bộ Ngoại Giao ở khách sạn Mayflower, có cả Rusk. Diệm và Thục được tháp tùng bởi McGuire và ba giới chức chính trị của giáo hội khi đó đang hoạt động để ngăn chận Cộng Sản: Linh mục Emmanuel Jacque, Giám mục Howard Carroll, và Edmund Walsh ở đại học Georgetown. Mục đích của cuộc gặp gỡ này là hỏi hai anh em Diệm Thục về đất nước của họ và xác định những niềm tin chính trị của họ. Điều rõ ràng sau đó là cả Thục và Diệm đều tin rằng Diệm sẽ cai trị đất nước của họ. Sự kiện là Việt Nam chỉ có 10% Công Giáo không đáng quan tâm đối với hai anh em Diệm.
Khi bày tỏ ý kiến trong bữa ăn tối, hai lập trường Diệm tin tưởng nhất đã rõ ràng. Hắn ta tin vào quyền năng của Giáo hội Công Giáo và hắn ta thù địch dữ dội và quyết liệt chống Cộng. Điều này chắc đã phải gây ấn tượng trên các viên chức Bộ Ngoại Giao. Quan tâm đến Việt Nam từ khi Truman bắt đầu giúp tài chánh cho Pháp ở đó (Việt Nam), những viên chức Bộ Ngoại Giao đã luôn luôn để ý đến những người lãnh đạo chống Cộng cực đoan vì ảnh hưởng của Pháp đã phai nhạt. Sau Điện Biên Phủ, Eisenhower muốn ủng hộ một chính phủ mở rộng hơn là chính phủ của ông Vua, người không được quần chúng ủng hộ mấy vì đã từ lâu bị coi như là một bù nhìn của Pháp và Mỹ. Do đó Mỹ muốn có một người Quốc Gia ở địa vị cao ở Nam Việt Nam để làm giảm sự hấp dẫn của Hồ Chí Minh. Kết quả là Bảo Đại đã cho Diệm một chức vụ mà Diệm mà Diệm vẫn muốn – Thủ Tướng. [[Về chuyện này Bernard Fall viết trong The Two Viet-Nams, trang 244: “Ý thức được rằng mình đang ném ngai vàng đi, Bảo Đại bắt Diệm phải thề(Theo Stanley Karnow, trang 218, Bảo Đại bắt Diệm thề trước cây Thánh Giá [before the crucifix]) trung thành với ông, và nhiều nhân chứng có thẩm quyền quả quyết là Diệm cũng còn quỳ xuống trước Hoàng Hậu Nam Phương là sẽ làm hết sức trong phạm vi quyền lực của mình để “giữ ngai vàng cho Hoàng Tử Bảo Long, con của Bảo Đại” (Fully realizing that he was throwing his throne away, Bao Dai allegedly made Diem swear a solemn oath of allegiance to him, and several authorative witnesses affirm that Diem also swore on his knees to Empress Nam-Phuong that he would do everything in his power “to preserve the throne of Viet-Nam for Crown Prince Bao-LOng”, son of Bao Dai.) Nhưng chúng ta đã biết, chỉ hơn 1 năm sau, Diệm đã dùng tiền của CIA để tổ chức cuộc Trưng Cầu Dân Ý gian lận để phế bỏ Bảo Đại và lên làm Tổng Thống. Về vụ này Bernard Fall cũng viết, trang 257:“Trong hầu hết các nơi bỏ phiếu, có nhiều ngàn phiếu nhiều hơn là số cử tri đã bỏ cho Diệm . Thí dụ, Ở vùng Saigon-Chợ Lớn, đếm được 605,205 phiếu trên số 450,000 cử tri ghi danh”. (In nearly all electoral areas, there were thousands more “Yes” votes than voters. In the Saigon-Cholon area, for example, 605,025 votes were cast by 450,000 registered voters)]]
Diệm trở về Saigon ngày 26 tháng 6, 1954, sau Edward Lansdale vài tuần. Lansdale là trùm CIA về quân sự ở Saigon, đặc trách cuộc chiến không theo quy ước [có nghĩa là đánh phá ngầm]
Lập trường của Spellman về Việt Nam phù hợp với những mong ước của giáo hoàng.Malachi Martin, một cựu tu sĩ dòng Tên phục vụ tại Vatican trong những năm Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam, nói rằng giáo hoàng muốn Mỹ ủng hộ Diệm vì giáo hoàng đã bị người anh của Diệm, Tổng giám mục Thục, ảnh hưởng. “Giáo hoàng quan tâm đến sự càng ngày càng thắng lợi của Cộng sản do đó làm suy yếu giáo hội,” Malachi xác nhận rằng: “Giáo hoàng ra lệnh cho Spellman khuyến khích Mỹ tham chiến ở Việt Nam.”
Do đó Spellman xếp đặt một chiến dịch hòa điệu kỹ càng để dựng lên chế độ Diệm. Qua báo chí và vận động trong hậu trường ở Washington, vấn đề đối đầu chống Cộng ở Đông Dương được phổ biến rộng rãi ở Mỹ.
Spellman và Kennedy cũng còn giúp lập lên một nhóm vận động hậu trường Washington. Chủ trương của sự đồng minh này là chống Cộng và phát huy ý hệ Công Giáo.
..Do đó, rất nhiều người Mỹ tin rằng Việt Nam là một quốc gia phần lớn là Công Giáo. Một phần của cái ấn tượng sai lầm này là kết quả của việc Diệm lên cầm quyền. Với sự giúp đỡ của CIA tổ chức cuộc bầu cử gian lận năm 1955, Diệm hủy bỏ chế độ quân chủ và Bảo Đại bị cưỡng bức phải sống trong cảnh lưu đầy. Cái màu sắc Công Giáo đậm đà trong cuộc vận động hậu trường Việt Nam cũng góp phần tạo nên quan niệm sai lầm trên. Còn một yếu tố khác là sự đặt mình vào trong đường lối trên của Spellman.
Rồi còn có vai trò hấp dẫn của một bác sĩ Công giáo trẻ hoạt động ở Việt Nam tên là Tom Dooley. Một Trung Úy hải quân hoạt động ở Hải Phòng, Dooley làm việc với các người tị nạn.
Là con cưng của Spellman, có một lúc Dooley tổ chức được 35,000 tín đố Công Giáo Việt Nam ở miền Bắc đòi di cư. Có lẽ những nỗ lực của Dooley thành công ở Mỹ hơn là ở Việt Nam. Hắn viết ra những bài trong nhật báo và tuần báo và 3 cuốn sách bán chạy nhất để tuyên truyền cho Công Giáo và chống Cộng theo những niềm tin của hắn.Hắn dựng lên những chuyện người Công Giáo bị khổ nạn trong tay của những người Cộng Sản đã đánh đập vào bộ sinh dục của các linh mục trần truồng, chọc thủng màng tai của những đứa trẻ bằng đũa để cho chúng không nghe được về Thiên Chúa, và mổ bụng phụ nữ có thai. Tốt nghiệp đại học Notre Dame ở Indiana [thực ra Dooley không tốt nghiệp bác sĩ từ đại học Notre Dame mà từ đại học St. Louis. Trường Notre Dame có tiêu chuẩn cao nên Dooley không theo được và phải bỏ Notre Dame theo học ở St. Louis. Nhưng ngay ở đây, Dooley cũng học rất kém, phải học lại năm cuối, và khi làm nội trú cũng phải làm thêm 6 tháng. Nhưng vì những công việc chống Cộng bịp bợm nên Dooley đã trở thành nổi tiếng như là một bác sĩ tận tụy giúp người di cư và chống Cộng cực đoan. Vì vậy năm 1960, trường Notre Dame trao tặng cho Dooley chức bác sĩ hàm] , Dooley đi khắp nước Mỹ để quảng cáo những cuốn sách của mình và hô hào chống Cộng, rồi chết năm 1961, khi mới có 34 tuổi. Người cuối cùng đến bên giường bệnh của Dooley là Hồng Y Spellman, người đã tôn ông bác sĩ trẻ như là nguồn cảm hứng cho mọi người – một thánh tử đạo khác. Tiếng tăm của Dooley không suy giảm cho đến khi Ủy Ban phong Thánh của Công Giáo La Mã điều tra năm 1979 và khám phá ra rằng Dooley có liên hệ với CIA. [Muốn biết sự thực về con người của Tom Dooley, xin đọc bài “Doctor Tom Dooley” của Peter Brush trong mục các bài tiếng Anh]
Dooley đã giúp CIA tạo loạn cho Bắc Việt qua những chương trình tị nạn của hắn. Những người Công Giáo đổ vào miền Nam đã mang đến cho Diệm một hậu thuẫn chính trị lờn và được hứa hẹn của Mỹ giúp đỡ để tái định cư. Quần chúng Mỹ phần lớn tin rằng hầu hết những người Việt Nam đều khiếp sợ sự độc ác và khát máu của Việt Minh và tìm đến ông Diệm sợ Chúa để được giải thoát. Nhiều người tị nạn chỉ sợ bị trả thù vì mình đã ủng hộ Pháp.
...Sự tuyên truyền của Spellman về bản chất Công Giáo của chính quyền Diệm đã làm rõ rệt thêm hình ảnh không đẹp về vị thế của giáo hội ở Việt Nam. Cái bản chất tôn giáo của chính quyền Diệm và những vấn đề chính quyền đó tạo ra đã được ghi nhận bởi Graham Greene, một tín đồ Công Giáo, trong một bài viết từ Saigon, in trong tờ London Sunday Times ngày 24 tháng 4, 1955:
“Chính cái giáo thuyết Công Giáo đã làm cho chính quyền Diệm sụp đổ, vì sự sùng tín của ông ta đã bị những cố vấn Mỹ khai thác cho đến khi giáo hội ở trong nguy cơ làm mất lòng dân như Mỹ. Một cuộc viếng thăm không thích hợp của Hồng y Spellman (Hồng Y Spellman đến Việt Nam để nâng uy tín của Diệm đồng thời bi thảm hóa của cuộc di cư lớn lao của người Công Giáo “dramatizing once more the great exodus of refugees from the North, the greater part of whom are Catholics.”) Một linh mục Việt Nam nói: Ông ta (Spellman) nói nhiều về con bò vàng [mà một số người Do Thái thờ phụng như được viết trong Cựu ước. TCN] hơn là về Mẹ Thiên Chúa] đã được tiếp nối bởi những cuộc viếng thăm của Hồng y Gillroy và Tổng Giám mục ở Canberra. Những số tiền lớn lao đã được dùng để tổ chức những cuộc biểu tình đón tiếp những vị khách này, đưa ra một ấn tượng là giáo hội Công Giáo là của Tây phương và là đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh. Trong những trường hợp hiếm hoi mà ông Diệm thăm viếng những vùng của Việt Minh trước đây, bao giờ cũng có một linh mục đứng bên, và thường là một linh mục Mỹ.
...Nam Việt Nam, thay vì đối đầu với chế độ toàn trị của miền Bắc bằng những bằng chứng về tự do, lại rơi vào một chế độ độc tài bất hiệu lực: dẹp bỏ báo chí, kiểm duyệt chặt chẽ, lưu đầy bằng lệnh của chính quyền thay vì phải được xét xử ở tòa án. Thật là bất hạnh khi một chính quyền như vậy lại đồng nhất hóa với một đức tin. Ông Diệm rất có thể đã để lại trên đất nước đầy tinh thần khoan nhượng này một di sản chống-Công Giáo.”
Trong cuộc viếng thăm, Spellman đã trao một ngân phiếu 100,000 đô-la cho Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo, một tổ chức hoạt động tích cực trong chương trình tái định cư những người di cư và sau đó cai quản chương trình viện trợ của Mỹ, chứng tỏ Tổ Chức này sát cánh với nỗ lực chiến tranh của Mỹ và đưa tới sự nghi ngờ là Tổ Chức có liên hệ với CIA. Dùng Giáo hội để làm chức vụ như vậy đã được thi hành ở Châu Mỹ La-Tinh, ngoài nhiều nơi khác, nhưng ở Việt Nam có vẻ đúng như những lời khuyến cáo của Graham Greene là Giáo hội và Mỹ đã cùng nhau thi hành một đường lối thất nhân tâm đối với những người Việt Nam.
Khả năng tham nhũng ở Việt Nam rất cao và cũng làm hại tới uy tín của Tổ Chức Cứu Trợ. Drew Parson ước tính chỉ trong năm 1955 chính quyền Eisenhower đã bơm vào Việt Nam trên 20 triệu đô-la viện trợ giúp người tị nạn Công giáo. Không thể tránh được, có quá nhiều gắn ghép và tham nhũng trong việc phân phối thực phẩm, thuốc men, và các đồ dùng khác tới các làng mạc. Tờ National Catholic Reporter đã phúc trình những sự lạm dụng của Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo trong nhiều bài mà một bài có đầu đề là: “Việt Nam 1965-1975. Vai Trò của Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo: Công Trình Của Chúa – Hay Của CIA?” Những sự lạm dụng bị phanh phui gồm có:dùng viện trợ để truyền đạo, chỉ giúp những người Công Giáo tuy viện trợ là cho tất cả mọi người, đồng nhất hóa với quân lực, và đem cho binh lính Mỹ và Việt thay vì cho dân sự như mục đích của viện trợ. [Những người ở Việt Nam thời đó đều biết rõ các Linh mục Công Giáo Việt Nam và tổ chức Công Giáo được giữ độc quyền để phân phát viện trợ. Sự phanh phui trên là từ một tờ tuần báo của chính Công Giáo] 1 
Qua tài liệu trên, và phối hợp với nhiều tài liệu khác, thí dụ như của Joseph L. Daleiden, một học giả Công Giáo trong cuốn The Final Superstition, chúng ta thấy rõ vai trò then chốt của Vatican đã dự phần đưa tới việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Chúng ta cũng còn biết, Hồng Y Spellman đã đến Việt Nam nhiều lần, đi tới các tiền đồn để khuyến khích lính Mỹ chiến đấu cho Chúa:“Trong một bài học thuộc Giáo hội thời Trung Cổ, Spellman bảo với binh sĩ Mỹ là họ là những “thánh chiến quân” tham gia vào cuộc chiến của Chúa Ki Tô chống Việt Cộng và dân chúng Bắc Việt” (John Cooney, p.384: In a lesson from the medieval Church, Spellman told the troops they were “holy crusaders” engaged in “Christ’s war against the Viet-cong and the people of North Vietnam). Nhưng tại sao Chúa lại chống Cộng ở một nước nhỏ bé như Việt Nam, sao Chúa không chống Cộng ở Nga, ở Tàu, hay ở Ba Lan, Tiệp Khắc ngay bên Âu Châu? Vatican, thêm một lần nữa, đã mang tội với dân tộc Việt Nam và các tín đồ Công Giáo Việt Nam phải gánh cái hậu quả này. Chúng ta cũng thấy rõ, Ngô Đình Diệm chẳng qua chỉ là một con cờ của liên minh Mỹ-Vatican. Và Ngô Đình Diệm không thể ngờ được rằng về sau, vì quyền lợi của Vatican và của Mỹ, cả Vatican và Mỹ đều bỏ rơi mình, đưa đến một kết quả quá bi thảm cho chính bản thân. Thật là tội nghiệp. Dưới hình thức nào thì thực dân cũng đều như nhau. Ngày nay, những tàn dư của Cần Lao còn cố gắng “phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm” mà không biết rằng họ đang phục hồi tinh thần Trần Ích Tắc. 
Để cho công bình, chúng ta cũng còn phải xét thêm việc từ khi về làm Thủ Tướng và rồi tự lên làm Tổng Thống, “Cụ Diệm” đã làm gì cho đất nước?
Đã có nhiều sách viết về nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa: Đỗ Mậu, Lê Trọng Văn, Hồ Sĩ Khuê, Nguyệt Đam & Thần Phong, Nguyễn Mạnh Quang, Vũ Ngự Chiêu v..v... Nhưng xin đọc Phần II để biết người Tây Phương đánh giá ông Ngô Đình Diệm như thế nào.(còn tiếp )

Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013

CẢM XÚC THÁNG CHẠP…





Tháng Chạp !
Ta mở cửa ngập Trời Tuyết bay
Những thân cây như Vũ nữ thân gầy
Mải mê múa trong vi vu nhạc Gió 
Tháng Chạp,
Vơi đầy nỗi nhớ
Nơi quê hương những nụ hoa Đào đang thắp Lửa
Xuân rất gần mà Ta vẫn rất xa…
Tháng Chạp
Mùa Đông giang vòng tay băng giá
Lạnh buốt ánh nhìn,lạnh buốt Thịt Da
Tái tê cả muôn chiều cảm xúc
Ta như trôi về Kỷ Băng Hà
Tháng Chạp
Thèm làm sao màu xanh của lá
Tươi tắn Đào phai,óng ả Mai vàng
Những sắc màu lung linh ký ức 
Đang trẩy hội tưng bừng đâu đó Xuân sang…
Tháng Chạp
Mở toang cửa mà lòng buồn xa vắng
Khuôn mặt nhàu thêm một vết thời gian
Bỗng mơ hồ trên má một giọt nước nhẹ lăn
Bông Tuyết chảy ơ sao mà mặn chát ?
Tháng Chạp
Nén một tiếng thở dài vu vơ ta hát :
“ Con biết Xuân này Mẹ chờ em trông…”

Lauingen - Rằm Tháng Chạp Nhâm Thìn 27.01.2013

VÀI NÉT VỀ CỤ HỒ( P.2 ) - Trần Chung Ngọc

Phần 2:

Trên Đàn Chim Việt, Minh Võ có viết bài phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Sau đó Minh Võ còn “đọc lại Trần Dân Tiên” và đưa ra một số ý kiến. Đọc hai bài này, chúng ta thấy rõ trình độ của ông Minh Võ không thể gọi là trình độ, kiến thức của Minh Võ không thể gọi là kiến thức. Tôi không có ý định phê bình chi tiết hai bài trên của ông Minh Võ, chỉ duyệt qua vài điểm, cùng trình bày vài ý kiến của độc giả về ông Minh Võ để chúng ta thấy rõ Minh Võ thuộc loại người nào. Trước đây, trên trang nhà Giao Điểm, Hà Giang đã có bài nhận định về cuốn “Ho Chi Minh” của Duiker, viết đứng đắn và nghiêm chỉnh hơn ông Minh Võ rất nhiều.

Trước hết, Lê Duy Khoa trên Đàn Chim Việt đã vạch ra rằng ông Minh Võ đã áp dụng bậy bạ tam đoạn luận để phỉ báng ông Hồ như sau:
a) Chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx là sai lầm, dối trá, tàn ác, phản nhân đạo, phản dân tộc. [TCN = Đây là một khẳng định vô trách nhiệm (affirmation gratuite). Cũng như Trần Mạnh Hảo, ông Minh Võ, không hiểu gì về Marx mà cứ viết bậy về Marx. Thế giới ngày nay đánh giá Marx như thế nào? Vị trí của Marx trong số những tư tưởng gia vĩ đại của thế giới là như thế nào?. 1. “Theo kết quả thăm dò ý kiến thính giả đài BBC Radio 4 trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư tưởng gia được biết đến, kính trọng, và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại được coi như là một triết gia vĩ đại nhất của mọi thời đại”??. [BBC Press Release: 13-7-2005: Out of a shortlist of twenty of the best known, most respected and influential philosophical thinkers, nominated by the In Our Time audience, Karl Marx has been voted the Greatest Philosopher of all time by BBC Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân bản, xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo hạng 7. 2. “Kết quả chọn vĩ nhân của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu người, Karl Marx đứng hàng thứ 3 trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng hàng thứ 10 (www.unserebesten.zdf.de). Lạ nhỉ, cả thế giới trí thức này mù và ngu cả hay sao mà không nhìn và đánh giá Marx như ông Minh Võ? ]

b) Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa cộng sản [Không ai phủ nhận điều này] 

c) Kết luận: không thể coi HCM là nhân đạo, yêu nước, anh hùng mà phải coi ông ta là tội đồ ác ôn của đất nước. 

Chúng ta thấy ngay, ông Minh Võ đã dựa trên sự hoàn toàn sai lầm của mình trong vế a) để đưa đến một kết luận tất nhiên cũng hoàn toàn sai lầm trong vế c). Nhưng không phải chỉ có vậy. Đọc Minh Võ, chúng ta thấy rõ qua giọng văn một sự thù hận ngất trời và phản ánh một trình độ hiểu biết quá thấp kém của mình. Đối với tôi, Minh Võ không phải là người đáng để tôi phê bình về những “tác phẩm” của ông ấy, tôi để dành điều này cho một số độc giả trên Đàn Chim Việt trong phần trích dẫn ở cuối bài. Ở đây tôi chỉ muốn nêu ra một lý luận rất ngớ ngẩn nếu không muốn nói là ngu xuẩn của ông Minh Võ khi phê bình đoạn sau đây của Duiker.

“Bất kể cuối cùng người đời phán xét về di sản của ông [Hồ] để lại cho dân tộc mình ra sao, ông Hồ đã chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng nói đích thực của họ.”

Vì Nhà Nước VN muốn dịch cuốn “Hồ Chí Minh” của Duiker nhưng muốn bỏ đi những đoạn nói về đời tư của ông Hồ, nên ông Minh Võ phê bình như sau: “Hồ Chí Minh đã tạo ra cái di sản ngăn cấm ngay tiếng nói của một sử gia [Duiker] thì có thể là bậc anh hùng đã đấu tranh mạnh mẽ cho tiếng nói đích thực của những kẻ cùng khổ được cất lên chăng?”

Thứ nhất ông Minh Võ không hiểu thế nào là di sản. Thứ nhì, cái di sản ông Hồ để lại cho dân tộc là nền độc lập quốc gia sau khi cất bỏ được chế độ thuộc địa của thực dân Pháp trên đất nước, và tiếp nối bởi chính ông và những người sau ông trong việc thành công đi đến sự thống nhất đất nước. Di sản đó tuyệt đối không phải là chính sách luôn luôn thay đổi của Nhà Nước và lẽ dĩ nhiên không phải là yêu cầu của Nhà Xuất Bản Chính Trị Việt Nam đối với Nhà Xuất Bản Hyperion ở New York như chúng ta thấy trong tài liệu sau đây trên Internet:

“Trong một bức thư cho nhà Xuất Bản Sách Hyperion ở New York, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia của chính quyền (VN) đã nói rằng họ chỉ muốn bỏ đi vài đoạn trong cuốn sách của Duiker “không phù hợp với những thông tin trong hồ sơ của họ.” (In a letter to New York publisher Hyperion Books, the state-run National Politics Publishing House has said only that it wants to remove certain passages from the Duiker biography that "do not conform with the information in our files".)

Đây có phải là một hành động ngăn cấm hay không hay chỉ là một đề nghị thương thuyết? Đầu óc như vậy mà ông Minh Võ muốn làm việc đội đá vá trời là xóa bỏ thần tượng Hồ Chí Minh thì đúng là sự mơ tưởng hão huyền của những kẻ cuồng tín vô minh.

Một nhận định khác có tính cách phóng đại rất lố bịch của ông Minh Võ về cuộc cải cách ruộng đất như sau:
“Thời ông HCM cũng thế nếu ông ấy tôn trọng Hiến pháp sao ông lại làm cải cách ruộng đất giết chết hơn nửa triệu người.?”
Ông lấy con số “hơn nửa triệu” này ở đâu ra? Chắc chắn là ông chưa hề đọc đến những công cuộc khảo cứu rất sâu rộng về Cải Cách Ruộng Đất ở Việt Nam: Mục đích, kết quả, số nạn nhân v..v.. của Gareth Porter, Edwin E. Moise, Noam Chomsky và Edward S. Herman. Rất có thể ông chỉ tin vào con số đoán mò của Hoàng Văn Chí, người đã thú nhận là con số nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất chỉ là đoán mò sau khi bị Gareth Porter công khai vạch ra những sự giả mạo trong tài liệu của Chí [Chi eventually conceded that his number of victims of the land reforms to be merely a “guess” (The Washington Post, 13 September, 1972). This admission came after Porter had made Chi’s falsification public.] Thật là đẹp mặt cho Hoàng Văn Chí và cho cả Minh Võ.

Theo những tài liệu của Noam Chomsky và Edward S. Herman cũng như của Gareth Porter và Edwin E. Moise thì Hoàng Văn Chí vốn là một địa chủ ở ngoài Bắc, sau đó làm cho Bộ Thông Tin của Chính Quyền miền Nam, rồi làm việc cho CIA và làm thông dịch viên cho Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ. Trong bài “The Myth of the Bloodbath: North Vietnam’s Land reform Reconsidered” (Bulletin of Concerned Asian Scholars, September 1973, pp. 2-15), Gareth Porter đã vạch ra vài đoạn Hoàng Văn Chí dịch bậy bài thú nhận có sai lầm trong việc thi hành cải cách ruộng đất của Tướng Võ Nguyên Giáp với mục đích giúp quan thầy Mỹ và miền Nam tuyên truyền xuyên tạc, thí dụ :

“Chúng ta không chú trọng đề phòng lệch lạc” đáng lẽ phải dịch là “We did not pay attention to precautions against deviation” thì Hoàng Văn Chí dịch là “Chúng ta phạm phải quá nhiều lệch lạc” (We made too many deviations); “Xử trí oan những người ngay” thay vì dịch là “the unjust disciplining of innocent people” thì Chí dịch là “hành quyết quá nhiều người lương thiện” (executed too many honest people); “không nhấn mạnh phải thận trọng, tránh…” [did not emphasize the necessity for caution and for avoiding] thì Chí bỏ đi không dịch (omitted); “dùng những biện pháp trấn áp quá đáng” [used excessive repressive measures] thì Chí dịch là “xử dụng đế khủng bố” (resorted to terror); “thậm chí dùng phương pháp truy bức” [even coercive measures were used] thì Chí dịch là “tệ hơn nữa, tra tấn” (worse still, torture)

v..v.. và còn thêm thắt vào những đoạn không có trong bản văn như “nhìn thấy kẻ thù khắp nơi” (seeing enemies everywhere) mà Gareth Porter không tìm thấy trong bản gốc (not in original). Noam Chomsky và Edward S. Herman còn vạch ra rằng, trong những cuộc phỏng vấn vào năm 1955, Hoàng Văn Chí không hề nói gì đến cuộc cải cách ruộng đất và con số những nạn nhân. Chỉ trong vài năm sau, sau khi Mỹ và Saigon biết đến những vấn đề trong cuộc cải cách ruộng đất từ những cuộc thảo luận trên báo chí ở Hà Nội mà Moise cho là “thẳng thắn kỳ lạ trong sự thảo luận những sai lầm và thất bại” (sometimes extraordinarily candid in discussing errors and failures”, Chí mới “nhớ lại” những điều viết trong tài liệu của mình.

Noam Chomsky và Edward S. Herman viết trong cuốn The Political Economy of Human Rights, Vol. I, South End Press, Boston, 1979, trang 342:

“Nguồn thông tin căn bản về những con số giết chóc lớn trong cuộc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt là từ những người của CIA hoặc Bộ Thông Tin Tuyên Truyền Saigon. Theo một người Việt Công giáo nay sống ở Pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Châu, Chỉ Huy Cơ Quan Chiến Tranh Tâm Lý Trung Ương của quân đội Saigon từ 1956 đến 1962, số nạn nhân bị “tắm máu” trong cuộc cải cách ruộng đất là “100% dựng lên” bởi cơ quan tình báo Saigon. Theo Trung Tá Châu, một chiến dịch có hệ thống dùng các tài liệu ngụy tạo để bôi nhọ đối phương được thi hành vào giữa thập niên 1950 để biện minh cho sự kiện là Diệm từ chối không thương thuyết với Hanoi trong việc sửa soạn tổ chức cuộc bầu cử để thống nhất đất nước quy định vào năm 1956.” (The basic sources for the larger estimates of killings in the North Vietnamese land reform were persons affiliated with the CIA or the Saigon Propaganda Ministry. According to a Vietnamese Catholic now living in France, Colonel Nguyen Van Chau, head of the Central Psychological War Service for the Saigon Army from 1956 to 1962, the “bloodbath” figures for the land reform were “100% fabricated” by the intelligence services of Saigon. According to Colonel Chau, a systematic campaign of vilification by the use of forged documents was carried out during the mid-1950s to justify Diem’s refusal to negotiate with Hanoi in preparation for the unheld unifying elections originally scheduled for 1956)

Giáo sư sử học James P. Harrison cũng viết trong cuốn The Endless War: Vietnam Struggle For Independence, Columbia University Press, 1989, trang 149:
“Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu kỹ về sau đã ước tính là con số những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc là vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù, theo một tác giả, hoặc có thể lên tới 15000 theo một tác giả khác, và do đó hầu hết những con số tuyên truyền của Saigon về vấn đề này là những con số phóng đại nếu không phải là hoàn toàn dựng đứng.” (Careful later studies, however, have estimated that the true figures for those executed in the noerthern land reform may have been more like 1500 plus 1500 jailed according to one, or possibly up to 15000 killed according to another, and therefore that most of Saigon’s propaganda on the subject was exaggerated if not a “total fabrication”.)

Giáo sư Pierre Brocheux viết trong bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” , trang 34:
“Đối với Hồ Chí Minh, tập thể hóa đất đai là sự bảo đảm phân chia đồng đều tài sản. Nhưng ông ta tố cáo sự dùng những hành phạt thể xác đối với các địa chủ và các nông dân giàu có và yêu cầu thi hành một chương trình sửa sai những sự bất công và phục hồi những sở hữu của nông dân thuộc quyền của họ (1956). Nhưng ông ta phải nhượng bộ trước đa số trong Đảng. Chiến dịch cải cách ruộng đất làm cho ít nhất là 15000 người chết.” (Pour Ho Chi Minh, la collectivisation des campagnes est la garantie d’une répartition égalitaire des resources. Mais il dénonce l’utilisation des peines corporelles contre les “propriétaires fonciers et riches paysans” et demande une programme de correction des injustices et la restauration des paysans propriétaires dans leurs possessions et leurs droits (1956). Il s’incline pourtant devant la majorité du Parti. La réforme agraire côutera la vie à 15000 personnes au moins.)

Về con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ, chúng ta có thể đối chiếu với một số tài liệu khác: Của Gareth Porter: từ 800 đến 2500; của Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5000 và chắc chắn trong khoảng từ 3000 đến 15000; của Trương Như Tảng, David Chanoff và Đoàn Văn Toại trong cuốn “A Viet Cong Memoir”: nhiều ngàn (thousands); của Bùi Tín trong Mặt Thật: “lên tới mười mấy ngàn”; của Vũ Thư Hiên: từ 4000 đến 5000. Chúng ta không thể biết chính xác con số bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng xét đến số làng mạc, ruộng đất ở ngoài Bắc, số địa chủ thực sự, số nông dân nghèo khổ phải thuê đất [một số của Nhà Chung] để cầy cấy v..v.. thì con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ là con số chỉ có trong đầu của ông Minh Võ.

Trên diễn đàn Đông Dương Thời Báo, tháng 5, 2006, chúng ta có thể đọc một đoạn về cải cách ruộng đất của chủ biên người Công Giáo, Giu-se Phạm Hữu Tạo, như sau:
Thật vậy, Hồ Chí Minh thực hiện cải cách ruộng đất, muốn lấy lại đất mà không phải giết nhiều người, vì lúc đó các địa chủ có tiền bạc tài sản, chạy thoát trước về vùng Pháp chiếm đóng… Cải cách ruộng đất là việc phải làm ở trong Nam cũng như ngoài Bắc. Phải lấy lại đất của Pháp, của nhà Chung để chia cho cán bộ và nông dân có sức lực và siêng năng cần cù mà không có đất để sống và cày bừa và hy sinh cho cách mạng quyết dành chủ quyền - độc lập - thống nhất đất nước … Chính sách cải cách ruộng đất đương nhiên là đụng đến Giáo hội và giáo dân Công giáo Việt gian, cho nên chúng ta không lạ gì tại sao người Công giáo căm thù CSVN và ngụy tạo bôi đen chính sách Cải Cách Ruộng Đất.

Hiện tượng Minh Võ thì hầu như ai cũng biết về ý đồ và trình độ của ông ta như thế nào. Để quảng cáo cho cái ý đồ này, ông ấy nhờ một người quen biết trẻ hơn, có cùng trình độ như ông ấy, lên tiếng quảng cáo cho cuốn Hồ Chí Minh: Một Nhận Định Tổng Hợp của ông ấy trong buổi ra mắt sách. Đó là ông Huỳnh Lương Thiện. Nhưng đọc Huỳnh Lương Thiện chúng ta thấy rõ là trình độ của ông ấy cũng chẳng hơn Minh Võ là bao nhiêu. Chứng minh?

Ông Huỳnh Lương Thiện phát ngôn:
Tôi nghĩ rằng tôi chỉ đáng em hay con của rất nhiều vị ngồi trong phòng này mà thôi. Thế mà quý vị có thể tưởng tượng là có kẻ khi tuổi còn nhỏ hơn, chỉ đáng em của tôi thôi mà đã dám xưng là bác với cả nước chúng ta. Quý vị biết đó là ai không? Hồ Chí Minh. Vâng, cám ơn quý vị đã cho biết kẻ đã dám xưng bác với cả nước là Hồ Chí Minh, tôi cũng biết điều đó. Tuy nhiên phải đến khi đọc cuốn sách này của bác Minh Võ thì tôi mới biết thêm là họ Hồ đã dám xưng bác với cả nước khi chỉ mới 55 tuổi, bằng tuổi cô em gái tôi. 
Thưa quý vị, tôi tuổi Canh Dần, 56, 57 tuổi rồi và đó là một trong hàng chục, hàng trăm dữ kiện độc đáo, đặc biệt mà tôi đã tìm thấy trong cuốn sách này.

Như vậy là ông Huỳnh Lương Thiện sinh khoảng năm 1949-1950, tất nhiên đích thân không biết gì về ông Hồ Chí Minh mà chỉ biết qua những sự kiện mà ông ấy cho là độc đáo trong cuốn sách của Minh Võ. Rõ ràng là, dựa vào điều viết bậy của Minh Võ trong cuốn sách của ông ấy, Huỳnh Lương Thiện đã phát ngôn bậy như trên. Nhưng dữ kiện trên có thật là độc đáo không? Rất có thể là độc đáo ở chỗ đã để lộ cái trình độ vô cùng thấp kém của mình về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. 

Thứ nhất, từ “Bác” mà ông Hồ Chí Minh dùng chỉ để nói với các “cháu nhỏ” trong vòng thân tình như người trong một nhà. Bác, nguyên nghĩa là anh của Bố hoặc Mẹ, và người Việt Nam thường dùng tiếng “Bác” để gọi thay con. Tiếng Bác cũng còn được dùng giữa các bạn bè cao tuổi dù rằng người bạn kém tuổi mình “Nguyễn Khuyến: Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác (Dương Khuê)”. Ông Hồ có thói quen là bất chợt đi thăm các em nhỏ trong trường học và nói những chuyện “Bác cháu ta”. Chưa ai thấy ông Hồ xưng là Bác với cả nước như ông Huỳnh Lương Thiện đã nói bậy dựa theo lời viết bậy của Minh Võ bao giờ. Người dân Việt Nam gọi ông Hồ là “Bác” nghĩa là coi ông như là bậc trưởng thượng thân tình của các con cháu trong nhà. Các ông chống Cộng mà chẳng biết gì về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam, ăn nói ngu như con cừu thì ai mà chịu được. Hãy đọc Peter A. DeCaro ở Buena Vista University viết về ông Hồ Chí Minh (acjournal.org):
“Chức “Bác” của ông Hồ phải được hiểu trong ngữ cảnh của nền văn hóa Trung Hoa trong đó người cao tuổi hơn được đặc biệt tôn kính. Bác (big uncle) là từ dùng để chỉ người anh của Bố hoặc Mẹ, người em nhỏ tuổi hơn gọi là “Chú”. Thật là tự nhiên khi người dân gọi [ông Hồ] là “Bác Hồ” vì những đồng nghiệp của ông ta thuộc một thế hệ trẻ hơn. Do đó Bác là một từ thân thuộc và những người Cộng Sản ở miền Bắc thường đưa ra sự kiện là mọi gia đình đều coi Bác Hồ là một thành phần vinh dự của gia đình. Còn nữa, Bác đồng nghĩa với cách cư xử dân chủ: người Cha có thể ra lệnh, nhưng người Bác [hay Chú] chỉ có thể đưa ra những lời khuyên.”
(Ho’s title of “Bac” must be understood in the context of Chinese culture in which the eldest members of society enjoy especial veneration. Bac means “big uncle;” it is the term used to denote the elder brother of a father or mother while the younger brother is referred to as Chu, “little uncle.” It was only natural that people began to speak of Bac Ho because his closest colleagues already belonged to a younger generation. Bac is therefore a familiar term and the Communists in North Vietnam liked to point out that every family considered Bac Ho an honored member. In addition, Bac is synonymous with democratic conduct; the father can command, but the uncle only advises.) 

Ông Minh Võ cũng như ông Huỳnh Lương Thiện hiển nhiên là những người không biết ngượng vì chính cái trình độ hiểu biết thấp kém của mình về xã hội Việt Nam so với một người ngoại quốc như Peter A. DeCaro. Nhưng, như đã nói ở trên, các ông thuộc lớp người chỉ viết bậy, cốt hả lòng thù hận, cho nên không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Tôi nghĩ rằng đối với những người như các ông, tôi không nên phí thêm thời gian để phê bình nữa. Nhưng có điều các ông cần biết, là thủ đoạn và trình độ của các ông không thể qua mắt được lớp trẻ ngày nay. Vậy sau đây, tôi xin nhường chỗ cho vài tiếng nói của lớp trẻ trên Đàn Chim Việt: 
1) Tôi cho rằng chính vì không tự mình tìm hiểu vấn đề một cách chủ động, giống như ông bạn Lương Thiện đăng đàn ở trên, bạn đã rơì quá dễ dàng vào những thứ lý sự quá đơn giản của những nhà nghiên cứu nửa mùa kiểu Minh Võ. Bạn hãy thử đề nghị Minh Võ đem dịch cuốn sách của mình ra tiếng Mỹ để xem những học giả Mỹ nghĩ gì. Cam đoan với bạn không đáng một cái nhếch mép! Trong nghiên cứu, kết luận về vấn đề nêu ra không quan trọng bằng cái phương pháp nghiên cứu đã dẫn đến kết luận ấy, đó là điều căn bản. Xin bạn lưu ý: đây là một vấn đề sử học, một vần đề khoa học chứ không phải là chuyện biểu diễn diễn lập trường, hoặc tệ hơn nữa bộc lộ oán thù, phục hận. 
2) Tôi chưa đọc cuốn sách "HCM, Nhận định tổng hợp" của Minh Võ nhưng đã "thử" đọc mấy bài viết của Minh Võ trên DCV Online, và chưa lần nào "tiêu hóa" nổi trọn vẹn một bài của Minh Võ. Không thể "tiêu hóa" nổi vì giọng văn của Minh Võ đầy hằn học và hận thù; người đọc (ngay cả lớp trẻ) có thể dễ dàng nhận thấy đó là giọng văn của một loser. Không thể "tiêu hóa" nổi vì những phân tích và nhận định của Minh Võ chẳng dựa trên phương pháp luận khoa học và những tài liệu lịch sử nào. Còn những bài viết của HCM để tuyên truyền, kêu gọi người dân đứng lên giành độc lập cho đất nước là những nghệ thuật vĩ đại; nó sánh như Nguyễn Trãi khi bôi mỡ vào lá cây cho kiến ăn để tạo ra dòng chữ "Lê Lợi làm vua, Nguyễn trãi làm tôi", hoặc là truyền thuyết về anh em vua Quang Trung thuần phục được ngựa thần trên núi. 
Sách của Minh võ là tiểu thuyết để giải trí ư? Không đáng; là sách lịch sử ư? Không phải. Có thư viện nào người ta mua và lưu trữ sách của Minh Võ không? Không có. Cái ông Lương Thiện gì đó chẳng lương thiện tí nào đang quảng cáo sách cho Minh Võ đó; và cũng nhân cái diễn đàn này ông ta gài thêm mấy khẩu hiệu chống cộng cũ rích - cũng là giọng hằn học của một loser.
3) Anh Lương Thiện và Minh Võ đã lấy cái định kiến ác ý cuả chính mình, hội đoàn mình để chủ trương bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh- Một nhân vật vĩ đại, kiệt xuất số một; Vô tiền, khoáng hậu trong lịch sử VN và nhân loại. Đó là những lời vu khống; Lập lờ đánh lận con đen; Câu chữ cắt xén, biạ đặt một cách có chủ ý, có kế hoạch hòng làm lu mờ thần tượng vĩ đại của dân tộc ta. 
Những người có thiện ý, thiện tâm... Thường có con mắt bao dung, độ lượng, nhìn vào mặt sáng, khai thác mặt sáng - Mặt tích cực. Công đức và thành tựu mà các vị giáo chủ hay vĩ nhân đó đã làm được cho dân, cho nước và nhân loại. Còn kẻ tiểu nhân đã mang sẵn định kiến hận thù thì sẽ làm ngược lại. Họ cũng biện chứng, dẫn chứng, có lang, có lớp như ai.. Nhưng đó chỉ là cách ngụy biện rẻ tiền. Chỉ cần chú ý đôi chút là ta sẽ nhìn rõ chân tướng chúng. 
4) Rêu rao là người hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản nhưng kiến thức của Minh Võ về vấn đề này chỉ là một con số không to tướng. 1) MV đã sai lầm hoàn toàn khi đồng hoá Marx với Đệ tam Quốc tế của Lenin. Học thuyết Marx là sản phẩm của xã hội tư bản phương Tây thế kỷ 19 trong khi đó ĐTQT là phản ứng của những nước ngoại vi với các nước giàu đã trở thành thực dân, đế quốc. 2) MV chỉ biết Marx qua Tuyên ngôn cộng sản 1848, không đếm xỉa gì đến những tác phẩm khác của Marx. Ngay cả với Tuyên ngôn này, MV cũng chỉ bám vào những từ ngữ tách rời khỏi hệ thống lý luận mà Marx đã mang ý nghĩa cho chúng (tư hữu, vô sản, quốc tế vô sản, chuyên chính…). 3) MV không hiểu biết gì về những mâu thuẫn thực tế của lịch sử hiện đại – giữa các quốc gia (giàu/giàu, giàu/nghèo, thực dân/bị trị, phát triển/chậm tiến…) , giữa các ý thức hệ (chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, cộng sản, phát xít…) do đó đã trút tất cả vào mâu thuẫn cộng sản/ chống cộng sản một cách máy móc. 3) Riêng với những nước bị thực dân thống trị vấn đề cướp nước và chống cướp nước đã bị MV đầy lùi về phía sau một cách cố ý rồi mượn luận điệu của thực dân đồng hoá cộng sản với khủng bố, nổi loạn để biện hộ cho tội cướp nước của chúng. Bị cộng sản kết cho cái tội “Việt gian” không có gì là oan cả 
5) Phương pháp gọi là “nghiên cứu” của MV cũng hoàn toàn phản khoa học. Ông ta không tìm hiểu thực tế và những phát sinh và chuyển động của nó để rút ra kết luận mà ngược lại: gán cho cộng sản một số thuộc tính chết cứng rồi từ đó kết án tất cả những biểu hiện khác nhau trong thời gian của phong trào cộng sản (bất chấp những nội dung khác nhau, mâu thuẫn trong phong trào ấy). Trong tranh luận, nghiên cứu người ta gọi phương pháp ấy là procès d’intention, không cần tìm hiểu, phân tích xem sự thực như thế nào mà chỉ cần quy kết theo thiên kiến của mình là đủ. Ai cũng biết đó là phương pháp suy luận của những đàn bà hay ghen (nhìn đâu cũng thấy những kẻ cướp chồng minh), những kẻ bị bệnh tâm thần ( nhìn đâu cũng thấy kẻ hại mình). Chẳng có gì khoa học, học thuật ở đây cả. Lý luận của MV rất phù hợp với cộng đồng những người có thâm thù với cộng sản: họ không còn đủ sáng suốt để nhìn ra đúng sai trong chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa cộng sản có rất nhiều cái sai) như một hiện tượng lịch sử, từ lý thuyết đến thực hành, cũng không đủ lý trí để nhìn ra ngay cả những đúng sai trong bản thân những thất bại nhục nhã, đau đớn của họ nữa. Đối với những con người như vậy, họ chỉ cần đổ lỗi để biện minh, chỉ cần bôi bác, nguyền rủa để trả hận là đủ. Thứ lý luận của MV chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi. 
6) Thực ra thì "Nhận định tổng hợp ", hay không tổng hợp thì người ta cũng biết rõ : Hằn học, chửi rủa thoá mạ một nhân vật lịch sử của VN như cố chủ tịch HCM là những người như thế nào ! Có rất nhiều gương mặt khác nhau dưới đủ mọi chiêu bài. Rất may ,qua đó người ta càng hiểu hơn thế nào là tính chân xác của lịch sử. Sẽ chẳng có người VN tỉnh táo nào lại lên án Vua Lê Lợi, khi chỉ vì quyền lợi quốc gia mà đem vợ mình cúng sống thần biển. ( bây giờ việc làm đó là thất đức và nặng mùi mê tín ) Nhưng mỗi người dân VN ,đều công nhận Lê Lợi, đó là một vị Vua có công đánh đuổi ngoại xâm, lập nên nhà Lê dài hơn 300 năm. Chắc chắn, thời buổi của ông không có máy tính, để bị lên án và vạch trần nhiều thủ đoạn.. mà tất cả vì đất nước v.v. Trong công cuộc xây dựng, mở nước, và giữ nước, chưa có ông Vua VN nào chuyên viết thỉnh nguyện thư gởi cho kẻ thù, để mong được kẻ thù thương mà trả nước. Tất cả các chiến công lẫy lừng như Bạch Đằng giang dậy sóng, hay trận Chi lăng ghi sử sách, chẳng viết bằng máu của dân VN đó sao? Chẳng lẽ trận Rạch gầm, soài mút được viết bằng máu của người Miên hay Lào ? Đó là máu của người VN đã đổ cho đất nước hôm nay. Dù muốn nói gì và nói sao chăng nữa thì lịch sử đã chứng minh: Pháp đô hộ Việt nam, Mỹ muốn cứu đồng minh và Người Nhật đã làm cho hai triệu đồng bào ruột thịt của chúng ta chết đói. Biết đâu trong chúng ta, có những người là con cháu của những người may mắn nhờ có Việt minh phá kho thóc của Nhật. 
7) Dù nói gì đi chăng nữa, thì một dân tộc với mã tấu răng đen như các anh vẫn gọi, thế mà trong một thế kỷ đánh gục đầu ba nước to lớn. Thử hỏi trong lịch sử từ cổ chí kim của nhân loại hỏi ai đã làm được như thế ? Người làm được chuyện đó ngoài HCM thì còn có ai ? Chẳng lẽ Ngô chí sỹ chăng hay cựu hoàng Bảo đại ? Tui biết trong thân tâm cũa người ngoại quốc, nhất là với người Mỹ, người Pháp và nhiều người dân thuộc các nước nhược tiểu khác, trong con mắt cũa họ: HCM là nhà tổ chức kỳ tài! Nếu không đủ đức đủ tài, mà như tui và các anh chẳng hạn.. thì làm sao làm được những việc kinh thiên động địa trên. Như chính chủ tịch HCM, công nhận hễ là con người thì ai cũng có khuyết điểm, trên con đường kiến tạo đất nước và giữ nước, Đảng CS VN không khỏi tránh những sai lầm.. Nhưng dù sai lầm đến như thế nào thì cái chính là nền độc lập tự chủ của VN đã được tạo dựng. Còn xây dựng nó như thế nào thì VN đang dần bước lên những nấc thang mà tiền nhân vẫn mong đợi là xây dựng đất nước bằng mười bằng trăm thế kỷ 20 ? Bạn có mơ và tin điều đó không ? Tui rất tin điều đó, bởi đó là bước đi tất yếu mà chẳng có ai ngăn được bước đi lên của dân tộc VN nam chúng ta.! Vì vậy Hồ chí Minh luôn là ngọn cờ soi dọi mỗi bước ta đi lên phiá trước ! 
8) Họ chụp mũ chúng ta là CS, chúng ta chỉ cười thầm vì bạn bè lớn nhỏ của chúng ta cũng đang sinh hoạt trên diễn đàn này, và tất nhiên bạn bè của chúng ta biết chúng ta hơn ai hết. Họ chửi chúng ta là tay sai, nhưng họ không có thể đem ra một bằng chứng nào cả. Chúng ta, vì tình người, đề nghị họ đọc một số sách vỡ lòng để họ còn biết tôn giáo họ như thế nào, nhưng họ không dám đọc vì sợ "bức xúc" trong lòng. Thế thì còn căn bản nào để nói cho nhau nghe? Thế thì còn căn bản nào để trở lại một con người chân chánh? Tôi coi ông Karl Marx là một triết gia như bao nhiêu triết gia khác, nhưng họ không chịu ông Karl Marx là một triết gia, mà xem ông Karl Marx là một ông "kẹ" hạng nhất trên đời này. Triết lý của Karl Marx được dạy khấp nơi trên thế giới ngay cả bật trung học, nhưng họ quả quyết rằng chỉ có những quốc gia CS mới dạy triết lý của Karl Marx! Rất buồn, là cùng một giống người, nhưng mà hể có "thánh đạo" thì hung hãn như một con chó, chỉ biết ăn rồi sủa chứ chẳng biết lý luận gì cả, còn người không có "thánh đạo" thì hiền từ. 
9) Theo ông Minh Võ thì cản trở cho công cuộc vận động dân chủ tại VN là do dân chúng vẫn còn hiểu sai về Hồ Chí Minh cho nên cần phải đánh đổ thần tượng Hồ mà bấy lâu nay đảng cọng sản xây dựng nên. Đây là một công việc vô bổ vì chẳng làm cho uy tín của ông Hồ suy giảm đối với người dân hai miền Nam Bắc. Gần một triệu người miền Bắc mà đa số là công giáo di cư, sai lầm của cải cách ruộng đất, vụ nhân văn giai phẩm, tết Mậu thân vẫn không ngăn cản được Việt cọng thực hiện được thống nhất đất nước. Chắc chắn rằng khi quân Mỹ đem một đội quân đông tới hơn 500000 người, chưa kể thêm những đội quân đồng minh thì những người như ông Minh Võ lúc ấy ở Sài gòn đều nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng . Vậy thì sức mạnh của Viêt cọng là ở chỗ nào nếu không nói là lòng dân. Họ tin tưởng ông Hồ vì đơn giản ông Hồ và người dân có cùng chung một mục tiêu là độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Chẳng có bao nhiêu bộ đội đọc nhiều sách như ông Minh Võ để hiểu về lý thuyết này lịch sử nọ. Họ cũng chẳng chiến đấu vì một thần tượng, lý do là năm 1969 ông Hồ mất, Việt cọng vẫn tiếp tục sự nghiệp của dân tộc. Vì vậy phân tích nguyên nhân không phát triển của tình hình hiện là do VN còn tín nhiệm ông Hồ. Điều này không đúng. Cần phải nhận định cho đúng đâu là nguyện vọng của người dân hiện tại để có khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, nếu không chỉ là Dã Tràng se cát... 
10) Tôi, TCN, không còn trẻ, nhưng tôi rất mừng vì có những bạn trẻ đã đưa ra những nhận định chính xác và sáng suốt, dựa trên những sự kiện lịch sử chứ không dựa trên cảm tính phe phái. Đây là một niềm hi vọng cho đất nước Việt Nam. Để kết luận, tôi xin trích dẫn hai tài liệu. Trước hết là đoạn kết trong cuốn Ho Chi Minh của Jules Archer, trang 189-190: 

“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này. Không vị kỷ, can đảm, hiến thân cho nền độc lập của Việt Nam bằng mọi giá, ông ta đã vật nước Pháp phải khụyu đầu gối và chiến đấu chống Hoa Kỳ, một thế lực mạnh nhất thế giới, đưa đến một thế bí quân sự.

Sự cương quyết về một mục đích đã làm thay đổi giòng lịch sử, làm phân rẽ dư luận quần chúng ở Hoa Kỳ, bắt buộc một Tổng Thống Mỹ phải rút lui không tái cử cho nhiệm kỳ hai, khiến cho hàng triệu giới trẻ trên khắp thế giới kính ngưỡng ông ta ủng hộ cách mạng và xuống đường biểu tình ủng hộ ông ta, hô “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh”

Sự pha trộn duy nhất chủ nghĩa Mác-xít với chủ nghĩa gia trưởng, và chủ nghĩa quốc gia cao độ của ông Hồ đã thành công vĩ đại trong việc gây cảm hứng cho dân ông chịu đựng những sự hi sinh to lớn. Họ cũng còn kính yêu “Bác Hồ” vì nhân cách khiêm nhường và những cách cư xử từ ái của ông. Ông Hồ là sự thất vọng của những kẻ thù – Pháp, chế độ Sài gòn, và Mỹ - vì họ không thể nào làm cho người ta thù hận được ông. Ông ta được sự kính yêu của người trong Nam cũng như của những người ở ngoài Bắc.

Một trong những thành quả vĩ đại của ông là, cũng như Tito, ông đã đạt thành một “Cộng sản quốc gia”, giữ cho nước của ông ta ở ngoài những móng vuốt của cả Trung Hoa Đỏ và Liên Bang Sô Viết, trong khi ông ta khôn khéo đi hàng đôi để có được sự giúp đỡ mà nước ông cần đến. Khi ông ta mất, Việt Nam không phải là một nước chư hầu, mà là một nước độc lập đầy hãnh diện, cương quyết trên sự thiết lập cá tính quốc gia cho mọi người Việt Nam…
Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông coi như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”
Communist or not, Ho Chi Minh will probably go down in history as a great Vietnamese patriot who was one of the extraordinary world figures of this century. Selfless, courageous, dedicated to Vietnamese independence at all costs, he wrestled France to her knees and fought the United States, the world’s mightiest power, to a military stalemate.
His single mind resolution changed the course of history, polarized public opinion in the United States, forced an American President to withdraw from seeking a second term, and radicalized millions of admiring youth around the world who demonstrated in his support chanting, “Ho, Ho, Ho Chi Minh”.
Ho’s unique mixture of Marxism, paternalism, and intense nationalism was enormously successful in inspiring tremendous sacrifice among his people. They also loved “Bac Ho” (Uncle Ho) for his winning personal modesty and gentle ways. Ho was the despair of all his enemies – the French, the Saigon regime, the Americans – because they were unable to muster hatred of him. He was held in as much affection in South Vietnam as among the people he led in the North.
Not the least of his great achievements was that he had, like Tito, achieve a “national Communism” which kept his country out of the grip of both Red China and the Soviet Union, while he skillfully played one off against the other to get the help his country needed. When he died, North Vietnam was no satellite but a proud, independent country, determined on nationhood for all Vietnamese…
When the books of his life are balanced, and peace is finally restored to the tragic land of Vietnam, Ho Chi Minh will always be known to the peasants who loved and followed him as the greatest Vietnamese in their history – the revere uncle of his country.) 

Thứ đến là nhận định của một cựu quân nhân Mỹ, ông David Thomas, giáo sư nghệ thuật, đại học Boston, người đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh ảnh Hồ Chí Minh ở Oakland, California, và đã bị một số người Việt Quốc Gia đến hò hét chống đối, văng tục và hành hung. Trước cuộc triển lãm, ông Thomas đã tổ chức một cuộc thảo luận với một số người Việt Nam. Ông phàn nàn: “Họ không cho tôi nói, văng tục, chửi hết câu này đến câu khác” (They kept hurling insult after insult. I didn’t get a chance to speak.) Nhưng ông ta cương quyết không nhượng bộ (But he stands behind his work unflinchingly). Ý định của ông tổ chức cuộc triển lãm là để cho quần chúng tìm hiểu về “con người đã làm thay đổi bộ mặt lịch sử thế giới.” (I want viewers to question, investigate this man who changed world history). Về ông Hồ Chí Minh, Thomas nói: 
“Tôi kính trọng tính chính trực của ông ta. Có vẻ như là ông ta chỉ có một nhiệm vụ trong đời, và đó là giải phóng Việt Nam ra khỏi người Pháp, và ông ta đã thành công. Hãy suy nghĩ về điều đó, một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam đã đánh bại một nước như nước Pháp và quay lại đánh bại chúng ta. Điều này chưa từng có trong lịch sử. Và tôi kinh ngạc bởi điều đó. Chúng ta phải ngưỡng mộ con người đã làm được như vậy.” (I respect his integrity,” Thomas adds. “He seemed to have one mission in his life, and that is to free Vietnam of the French, and he did it. Think about it, a little country like Vietnam beat a country like France and turned around and beat us. That has never been done in history. And I’m awed by that. You have to admire a man that did that.) 
Hẳn nhiên Thomas đã nhìn sự việc trên bình diện to lớn của lịch sử hơn là những chuyện lặt vặt như ông Hồ có mấy vợ, hút bao nhiêu điếu thuốc lá một ngày, hay đã làm đơn xin học trường thuộc địa [Muốn học ở Pháp khi đó không xin học ở trường thuộc địa thì xin học ở trường nào, trường Nhà Dòng chăng. Nhưng có ai đọc kỹ câu này không: “Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’instruction”. Vậy rõ ràng mục đích của ông Hồ là muốn tăng thêm học vấn để phục vụ đồng bào. Pháp dùng chính sách ngu dân để cai trị, nhưng ông Hồ lại muốn “trở thành hữu ích cho Pháp” với mục đích dùng kiến thức của mình phục vụ đồng bào. Đọc về ông Hồ, chúng ta ta thấy rõ đó là mục đích chính của ông. Nên nhớ, khi vừa nắm được chính quyền, Việt Minh đã phát động phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ khắp nước. Vậy mà người ta lại thường viện vào cái đơn xin học này để chứng tỏ ông Hồ không phải là người yêu nước...] 

Vài lời kết: 

Tôi chưa từng có cơ hội đọc cuốn sách của Trần Dân Tiên, chỉ biết đến tên cuốn sách này qua bài ông Minh Võ đọc Trần Dân Tiên và viết trên Đàn Chim Việt: “Năm 1976, Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam công bố Trần Dân Tiên không phải người nào khác mà chỉ là bút hiệu của Hồ Chí Minh.” Ông Minh Võ cho rằng các tác giả viết về ông Hồ Chí Minh trong khoảng 1948-1975 đều bị lừa bịp bởi cuốn sách của Trần Dân Tiên về ông Hồ, và kể ra vài tác giả quen thuộc: Bernard Fall, Jean Lacouture, David Halberstam. Nhưng đọc mấy tác giả này, Bernard Fall: “Street Without Joy” (1964), “The Two Viet-Nams” (1967); Jean LaCouture: “Cinq Hommes Contre La France” (1961); Halberstam: “The Making Of A Quagmire” (1965) chúng ta thấy họ không hề nêu ra nguồn tài liệu nào về Ông Hồ là lấy từ cuốn sách của Trần Dân Tiên trong danh sách những tư liệu tham khảo. Và ngay cả trong hàng trăm cuốn sách trong đó có viết về ông Hồ sau năm 1975 cũng không có cuốn nào dùng tài liệu của Trần Dân Tiên. 

Đúng như một bạn trẻ đã nhận định ở trên: “Thứ lý luận của Minh Võ chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi” chúng ta hãy điểm qua vài “lý luận” của ông Minh Võ: 

1. Nếu người dân có tôn sùng và gọi Hồ Chí Minh là Cha già dân tộc thì đó chỉ là kết quả của một nỗ lực dắt dẫn, uốn nắn thậm chí cưỡng bách nhiều năm. 

Thật vậy sao? Cưỡng bách tôn sùng? Điều này chỉ có thể thấy trong lịch sử Công Giáo qua những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo (Inquisition) và lịch sử truyền đạo qua chính sách thực dân. Nếu là cưỡng bách thì làm sao người dân có thể chiến thắng một cường quốc như Pháp rồi về sau lại đánh bại một cường quốc vào bậc nhất thế giới như Mỹ. France Fitzgerald đã viết: “Một bài học mà hầu như bất cứ vị lãnh đạo quốc gia nào cũng có thể học được từ ông Hồ Chí Minh: đó là, nếu đi vào một cuộc chiến lâu dài thì phải có sự ủng hộ của người dân. Sự ủng hộ này quan trọng hơn vũ khí, vì nếu người dân tin vào chính nghĩa của họ, họ có thể chấp nhận những sự hi sinh phi thường. Nếu họ không tin, mọi vũ khí trở thành vô ích.” [Vietnam Reconsidered: Lessons From A War, p. 302: There’s a lesson that almost any leader in any country might learn from Ho Chi Minh, and that is, if you embark on a war of any duration, you must have the support of your people. This support is more important than weapons, for if people believe their cause is just, they are capable of extraordinary sacrifices. If they do not, all your weapons are useless.]. Fitzgerald đã viết không sai. Nếu không tin tưởng vào chính nghĩa, người dân Việt Nam không thể chịu bao hi sinh để thắng nổi những thế lực quân sự có ưu thế tuyệt đối về quân sự như Pháp và Mỹ trong hai cuộc chiến ở Đông Dương. Ai đã mang lại chính nghĩa đó, nếu không phải là ông Hồ. 

2) Minh Võ viết: “6 năm sau cái thời điểm mà Hồ Chí Minh tự diễn tả mình được toàn dân coi là Cha già dân tộc, thực tế đã nói lên một cách cụ thể thái độ của người dân đối với Hồ Chí Minh bằng sự trạng hơn một triệu người bỏ xóm làng, sản nghiệp ra đi, khi miền Bắc đặt dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh.” 
Chẳng có ai, xin lỗi độc giả, viết bậy như Minh Võ. Minh Võ có biết là thành phần, không phải là hơn một triệu, mà là gần một triệu, của số người di cư từ Bắc vào Nam là như thế nào không. Hãy đọc Bernard Fall trong “The Two Viet-nams”, trang 154: 
“Trong số 860000 người chạy vào Nam, 600000 người là tín đồ Công Giáo. Tuy 65% trên tổng số người Công giáo (ở ngoài Bắc) bỏ Bắc Việt Nam, hơn 99.5 % những người không Công Giáo ở lại.”
(Of the 860000 who fled South at this time, 600000 were Catholics. Although 65 percent of the total Catholic population left North Viet-Nam, more than 99.5 percent of the non-Catholics stayed put.) 
Tại sao tỷ lệ những người Công Giáo chạy vào Nam lại cao như vậy? Fall giải thích: 

“Những khẩu hiệu và truyền đơn tuyên truyền kêu gọi những tín đồ Công Giáo sùng tín là “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”; cho nên, toàn thể các xứ đạo – thí dụ như Bùi Chu và Phát Diệm – từ những ông giám mục cho đến hầu như ông linh mục cuối cùng trong làng và giáo dân đã gói ghém mọi đồ đạc [để đi theo Chúa và Đức Mẹ]”
(Propaganda slogans and leaflets appealed to the devout Catholics with such themes as “Christ has gone to the South” and the Virgin Mary has departed from the North”; and whole bishoprics – Bui Chu and Phat Diem, for example, packed up lock, stock, and barrel, from the bishops to almost the last village priest and faithful.) 
Chúng ta cũng không nên quên rằng Bùi Chu, Phát Diệm là những khu “Công giáo tự trị”, đã nhận lãnh vũ khí của Pháp để chống Việt Minh. Vậy chính cái mặc cảm phản bội dân tộc cộng với trình độ quá thấp đến độ bị mấy tên xảo quyệt như Lansdale và “bề trên” tuyên truyền láo: “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”, một sự sự mê tín mà Linh Mục Trần Tam Tĩnh phải lắc đầu kêu trời trong cuốn “Thập Giá và Lưỡi Gươm” đã khiến cho số người Công Giáo trên di cư vào Nam. Phần còn lại là công chức, quân nhân trong quân đội liên hiệp Pháp. Còn tỷ lệ những người dân thường không đáng kể. Ông Minh Võ dốt sử nên không hiểu rằng cuộc di cư của số người Công Giáo này thực ra là có lợi cho chính quyền miền Bắc: có thêm ruộng đất để chia cho nông dân nghèo, và đỡ đi phần nào của mối lo về một số người thuộc một thế lực “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc.” ở lại miền Bắc. 
Viết bài này, tôi không có ý biện hộ hay bênh vực ông Hồ Chí Minh trước cuộc “thánh chiến chống Cộng” ở hải ngoại, mà chỉ viết theo sự hiểu biết của mình qua sự tổng hợp một số tài liệu. Lịch sử đã rõ ràng, không ai cần đến tôi làm việc này. Nhưng thấy trình độ và những thủ đoạn hạ bệ ông Hồ Minh Võ cũng như của một số đồng bọn ở đây thấp kém và ấu trĩ quá, mà lại cứ thích viết bậy, có những hành động làm nhục lây cả những người Quốc Gia như tôi, nên tôi buộc lòng phải viết lên vài điều để cảnh tỉnh những người muốn dùng những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử cho những mục đích chính trị của mình. Viết về ông Hồ, chúng ta không thể chỉ kể ra những chi tiết lặt vặt trong đời tư của ông mà phải nhìn vấn đề trên bình diện rộng hơn. Ít nhất là phải phân tích những hoạt động của ông ở ngoại quốc trước khi ông biết đến chủ thuyết Mác-Lênin, ở Hội Nghị Hòa Bình Versailles, ở các Hội Nghị Quốc Tế, phải đọc những bài ông Hồ Chí Minh, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, viết trên những tờ L’Humanité, La Vie Ouvrière, Le Paria v..v.., nội dung ra sao, ông đã thành lập và tổ chức Việt Minh từ bao giờ, để làm gì, đã có những hoạt động chống Nhật và Pháp như thế nào, và sau cùng, đường lối chính trị của ông sau 1945 cho đến khi ông qua đời v..v.. thì mới có thể đánh giá đúng ông Hồ được.

Vài lời cuối với ông Minh Võ và những người có ý định phá bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh” như ông Minh Võ: Cái di sản mà ông Hồ Chí Minh để lại cho người dân Việt Nam là một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là công của mình ông Hồ mà là của toàn dân, ít ra là của đại đa số người Việt đã coi ông Hồ như là biểu tượng truyền thống yêu nước của người Việt Nam, do đó đã không ngại mọi hi sinh để đạt thành. Nhưng quan trọng hơn là thế giới đã biết nhiều hơn về Việt Nam và không còn dám coi thường Việt Nam tuy Việt Nam vẫn còn là một nước tương đối nghèo và kém phát triển. Xin đừng có coi thường độc giả. Đừng có hi vọng họ tin tất cả những điều mình viết. Ngay cả giới trẻ ngày nay cũng sáng suốt lắm. Họ không để cho bị bịp bởi những luận điệu vô căn cứ, thuần túy viết theo thiên kiến và cảm tính đâu. Dù thế nào đi chăng nữa thì đối với thế giới và đại đa số người dân Việt Nam, đúng như Jules Archer đã viết: 

“Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông, coi ông như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.” ..
“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này.

(còn nữa : VÀI NÉT VỀ "CỤ" DIỆM )